Giám sát là việc làm cần thiết đối với mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội, đặc biệt là đối với chính đảng của giai cấp vô sản, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam.

ĐỔI MỚI, CHỦ ĐỘNG, KỊP THỜI
Để lãnh đạo đúng, trước hết Đảng “phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng". Tuy nhiên, lãnh đạo đúng để đi đến thành công còn cần “Phải tổ chức sự thi hành cho đúng.... " và “Phải tổ chức sự kiểm soát..."(1). Quy trình lãnh đạo này nhằm biến lý luận thành thực tiễn, đường lối, chính sách, nghị quyết đi vào cuộc sống. Mặt khác, nói về kiểm soát, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “1. Có kiểm soát như thế mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu. 2. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan. 3. Mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết”(2) và “Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi"(3). Kiểm soát ở đây chính là kiểm tra và giám sát, một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng.
Trong giám sát có nhiều hình thức khác nhau, ngoài sự giám sát từ trên xuống và từ dưới lên, giám sát trực tiếp và gián tiếp còn có giám sát từ trong ra và từ ngoài vào. Giám sát từ trong ra là sự giám sát trong nội bộ Đảng, trong nội bộ tổ chức, là sự tự giám sát chính mình. Giám sát từ ngoài vào là kết hợp với vai trò quản lý của Nhà nước, sự tham gia giám sát của các đoàn thể chính trị và nhân dân.
Trong thực hiện giám sát từ ngoài vào, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh sự tham gia giám sát của nhân dân. Người khẳng định: “Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”(4) hay “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”(5).
Theo Hồ Chí Minh, giám sát của nhân dân không chỉ giúp cho lãnh đạo nắm chắc chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; kịp thời ngăn ngừa những khuyết điểm, sai lầm và giúp đỡ họ sửa chữa mà còn khơi dậy được tính tích cực, sức mạnh to lớn của nhân dân, củng cố uy tín của Đảng trước quần chúng. Thực hiện công tác giám sát trong Đảng một cách nghiêm ngặt kết hợp với giám sát bên ngoài của nhân dân sẽ góp phần làm cho Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Người viết:
"- Một mặt trong có Đảng kiểm tra đôn đốc.
- Một mặt có anh em ngoài kiểm tra đôn đốc.
Như thế đảng viên và cán bộ ngoài Đảng cùng được giáo dục. Nếu đảng viên không gương mẫu, người ngoài Đảng có thể nói là không xứng đáng. Hoặc anh em ngoài gương mẫu thì có thể đề nghị Đảng công nhận là đảng viên”(6).
Ngay khi Cách mạng Tháng Tám vừa mới thành công, chính quyền vừa mới được thành lập, Hồ Chí Minh đã nhận thấy một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện lên mặt làm quan cách mạng, cậy có chức quyền nhũng nhiễu nhân dân. Người đã đề nghị nhân dân tích cực tham gia giám sát, giúp đỡ Đảng, Chính phủ. Người chỉ rõ: “Có người làm quan cách mạng, chợ đỏ chợ đen, khinh dân, mưu vinh thân, phì gia ... Xin đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc Chính phủ”(7). Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, phần “Cách lãnh đạo”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề ra cho dân thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giám sát có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng không những trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc mà còn trong công tác xây dựng Đảng giai đoạn hiện nay. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giám sát, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn nhận thức và phát huy vai trò to lớn của giám sát trong công tác xây dựng Đảng. Công tác giám sát đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; bảo vệ đường lối, quan điểm, các nguyên tắc của Đảng; thúc đẩy xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng… góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng.
Trong thời gian gần đây, công tác giám sát có nhiều đổi mới, chủ động và kịp thời hơn, bám sát yêu cầu thực tiễn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là ở cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”(9).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giám sát vẫn còn tồn tại những khuyết điểm, hạn chế cần sớm được khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Đặc biệt, một số cơ sở, công tác giám sát chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ, còn mang tính hình thức, chưa quyết liệt, còn có hiện tượng nể nang, né tránh, đùn đẩy, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên... Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Việc kiểm tra, giám sát thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa thường xuyên. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm…; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời”(10).
(Còn tiếp)
TS. Trần Thị Hợi
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
____________
(1) (2) (3) (4) (7) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.325, 327, 327, 325, 75, 337-338, 336.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr.81.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr.59.
(9) (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t. II, tr.197 - 198, 201, 197 - 198, 201.
Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo